Lịch sử hoạt động SMS Blücher

SMS Blücher trước chiến tranh, khoảng năm 19131914

Blücher được hạ thủy vào ngày 11 tháng 4 năm 1908 và đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 1 tháng 10 năm 1909. Nó đã phục vụ như là tàu huấn luyện tác xạ cho pháo thủ hải quân bắt đầu từ năm 1911. Đến năm 1914, nó được chuyển sang Đội Tuần tiễu 1 cùng với các tàu chiến-tuần dương mới Von der Tann, Moltkesoái hạm Seydlitz.[9]

Càn quét Baltic

Hoạt động đầu tiên mà Blücher tham gia trong chiến tranh là đợt càn quét vào biển Baltic chống lại lực lượng Hải quân Đế quốc Nga mà cuối cùng bất phân thắng bại. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1914, cùng với bảy thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 4, năm tàu tuần dương hạng nhẹ và 24 tàu khu trục, Blücher đã tiến vào biển Baltic với ý định lôi kéo một phần hạm đội Nga và tiêu diệt chúng. Tàu tuần dương Augsburg đã đụng độ với các tàu tuần dương bọc thép Nga BayanPallada về phía Bắc đảo Dagö (nay là Hiiumaa). Chiếc tàu tuần dương Đức tìm cách nhữ các con tàu Nga về phía Blücher để nó có thể tiêu diệt chúng, nhưng đối phương đã không mắc bẫy mà thay vào đó rút lui về phía vịnh Phần Lan. Đến ngày 9 tháng 9 chiến dịch bị hủy bỏ mà không có cuộc đụng độ lớn nào giữa hai hạm đội.[17]

Bắn phá Yarmouth

Bài chi tiết: Bắn phá Yarmouth

Vào ngày 2 tháng 11 năm 1914, Blücher cùng các tàu chiến-tuần dương Moltke, Von der Tann và Seydlitz, có bốn tàu tuần dương hạng nhẹ tháp tùng, rời Jade Bight di chuyển về phía bờ biển nước Anh.[18] Hải đội đi đến ngoài khơi Great Yarmouth lúc bình minh sáng hôm sau và đã bắn phá cảng, trong khi tàu tuần dương hạng nhẹ Stralsund rải một bãi mìn. Tàu ngầm Anh D5 đã đáp trả lại cuộc tấn công, nhưng nó trúng phải một quả mìn do Stralsund rải và bị chìm. Không lâu sau đó, Phó đô đốc Franz von Hipper, Tư lệnh Đội Tuần tiễu 1, ra lệnh cho các con tàu dưới quyền quay trở về vùng biển nhà của Đức. Trên đường đi, sương mù dày đặc bao phủ, nên các con tàu được lệnh chờ cho đến khi tầm nhìn được cải thiện để có thể di chuyển an toàn qua các bãi mìn phòng thủ của Đức. Tàu tuần dương bọc thép Yorck mắc sai lầm trong định hướng đi vào một trong những bãi mìn của Đức; nó trúng hai quả thủy lôi và chìm nhanh chóng, chỉ có 127 người trong tổng số 629 thành viên thủy thủ đoàn được cứu sống.[18]

Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby

Đô đốc Friedrich von Ingenohl, Tổng tư lệnh Hạm đội Biển khơi Đức, quyết định tiến hành thêm một cuộc bắn phá khác vào bờ biển Anh Quốc với hy vọng lôi kéo một phần Hạm đội Grand vào cuộc chiến, nơi có thể bị tiêu diệt từng phần.[18] Lúc 03 giờ 20 phút giờ Trung Âu[Ghi chú 4] ngày 15 tháng 12 năm 1914, Blücher, Moltke, Von der Tann, chiếc tàu chiến-tuần dương mới Derfflinger và Seydlitz, cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ Kolberg, Stralsund, StrassburgGraudenz cùng hai chi hạm đội tàu phóng lôi rời Jade Estuary.[19] Các con tàu của Hipper di chuyển lên phía Bắc, vượt qua Heligoland để đi đến hải đăng Horns Reef, nơi chúng chuyển hướng sang phía Tây hướng đến Scarborough. Mười hai giờ sau khi Hipper khởi hành, phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, bao gồm 14 chiếc thiết giáp hạm dreadnought và 8 thiết giáp hạm tiền-dreadnought cùng một lực lượng hộ tống gồm 2 tàu tuần dương bọc thép, 7 tàu tuần dương hạng nhẹ và 54 tàu phóng lôi lên đường để hỗ trợ từ xa.[19]

Trước đó, vào ngày 26 tháng 8 năm 1914, tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Magdeburg bị mắc cạn trong vịnh Phần Lan; xác tàu bỏ lại bị Hải quân Nga chiếm, và cùng với các hải đồ của Bắc Hải, họ đã tìm thấy các quyển sổ mật mã được Hải quân Đức. Những tài liệu này được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh. Phòng 40 bắt đầu giải mã các tín hiệu của Đức, vào ngày 14 tháng 12 đã bắt được những thông điệp liên quan đến kế hoạch bắn phá Scarborough.[19] Không thể biết được chi tiết chính xác của kế hoạch, họ chỉ đoán rằng Hạm đội Biển khơi Đức sẽ ở lại một cách an toàn trong cảng như trong đợt bắn phá trước. Bốn tàu chiến-tuần dương thuộc Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc David Beatty, được Hải đội Tuần dương 3 và Hải đội Tuần dương nhẹ 1 hỗ trợ cùng với sáu thiết giáp hạm dreadnought của Hải đội Chiến trận 2 sẽ phục kích các tàu chiến-tuần dương của Hipper.[20]

Trong đêm 15 tháng 12, thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức đã đụng độ với tàu khu trục Anh. Lo sợ một cuộc tấn công bằng ngư lôi ban đêm, Đô đốc Ingenohl ra lệnh cho các con tàu rút lui.[20] Hipper đã không biết được sự thoái lui của Ingenohl, vẫn tiếp tục cuộc bắn phá theo kế hoạch. Khi đến được khu vực bờ biển Anh, lực lượng của Hipper được cho tách ra làm đôi: Seydlitz, Moltke và Blücher đi lên phía Bắc để bắn phá Hartlepool, trong khi Von der Tann và Derfflinger hướng về phía Nam để bắn phá Scarborough và Whitby. Trong số các thị trấn Anh, chỉ có Hartlepool được bảo vệ bởi một khẩu đội phòng thủ duyên hải.[21] Trong khi bắn phá Hartlepool, Seydlitz bị bắn trúng ba lần còn Blücher trúng sáu phát pháo phòng thủ duyên hải. Blücher chỉ bị hư hại nhẹ nhưng có đến chín người thiệt mạng và ba người khác bị thương.[21] Đến 09 giờ 45 phút ngày 16 tháng 12, hai nhóm tập hợp trở lại và bắt đầu rút lui về phía Đông.[22]

Sơ đồ vị trí của Hạm đội Biển khơi Đức vào sáng ngày 16 tháng 12

Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương của Beatty đã ở vào vị trí ngăn chặn con đường mà Hipper lựa chọn để rút lui, trong khi các lực lượng khác đang trên đường tiến đến để hoàn thành việc bao vây. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải đội Tuần tiễu 2 bắt đầu băng qua lực lượng Anh để tìm kiếm lực lượng của Hipper.[23] Một trong các tàu tuần dương của Hải đội Tuần dương nhẹ 1 phát hiện Stralsund và gửi một thông báo đến Beatty. Lúc 12 giờ 30 phút, Beatty đổi hướng các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía các con tàu Đức, dự đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng tiên phong bảo vệ cho các con tàu của Hipper; nhưng thực ra các tàu chiến-tuần dương Đức còn ở cách 50 km (31 dặm) về phía trước. Hải đội Tuần tiễu 2 vốn đang bảo vệ cho các con tàu của Beatty đã được cho tách ra để truy đuổi các tàu tuần dương Đức; nhưng do việc diễn dịch sai tín hiệu từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã gửi, chúng quay trở lại vị trí hộ tống.[Ghi chú 5] Sự nhầm lẫn này cho phép các tàu tuần dương nhẹ Đức chạy thoát và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến Đức lẻn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và đã chạy thoát.[23]

Cả hai phía Đức và Anh đều thất vọng vì đã không chiến đấu lại đối thủ một cách hiệu quả. Uy tín của Đô đốc Ingeholh bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu quả của sự nhút nhát. Thuyền trưởng của Moltke tỏ ra gay gắt, ông cho rằng Ingenohl đã rút lui "vì ông lo sợ mười một chiếc tàu khu trục Anh vốn có thể loại bỏ dễ dàng... dưới sự lãnh đạo như thế này chúng ta sẽ chẳng đạt được gì."[24] Lịch sử chính thức của Hải quân Đức phê phán Ingenohl đã không sử dụng lực lượng hạng nhẹ của mình để thăm dò quy mô lực lượng của hạm đội Anh, cho rằng: "Ông đưa ra quyết định không chỉ gây nguy hại đáng kể cho lực lượng phía trước ngoài khơi bờ biển Anh, mà còn cất đi khỏi Hạm đội Đức một thắng lợi chắc chắn và đáng kể."[24]

Trận Dogger Bank

Bài chi tiết: Trận Dogger Bank (1915)
Blücher trên đường đi

Vào đầu tháng 1 năm 1915, tin tức cho biết các tàu chiến Anh tiến hành trinh sát tại khu vực Dogger Bank. Đô đốc Ingenohl thoạt tiên do dự không muốn tiêu diệt các lực lượng này, do Đội Tuần tiễu 1 tạm thời bị yếu kém trong khi Von der Tann đi vào ụ tàu để bảo trì định kỳ. Tuy nhiên, Chuẩn đô đốc Richard Eckermann, Tham mưu trưởng Hạm đội Biển khơi, cứ nhất định đòi thực hiện chiến dịch, nên Ingenohl bị thuyết phục và ra lệnh cho Hipper đưa các tàu chiến-tuần dương còn lại dưới quyền đến Dogger Bank.[25] Ngày 23 tháng 1, Hipper khởi hành với cờ hiệu của mình trên chiếc Seydlitz, được tiếp nối bởi Moltke, Derfflinger và Blücher cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ Graudenz, Rostock, Stralsund và Kolberg và 19 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 2, 5 và bán-chi hạm đội 18. Graudenz và Stralsund được phái đi hộ tống phía trước hải đội, trong khi Rostock và Kolberg lần lượt được phân sang mạn phải và mạn trái tương ứng, mỗi tàu tuần dương hạng nhẹ có một bán-chi hạm đội tàu phóng lôi phối thuộc.[25]

Một lần nữa, việc thu thập và giải mã tín hiệu vô tuyến của Đức đã đóng một vai trò quan trọng. Cho dù nhân viên giải mã Phòng 40 không thể biết được chính xác kế hoạch, họ vẫn có thể đoán được rằng Hipper sẽ tiến hành một chiến dịch tại vùng Dogger Bank.[25] Để đối phó, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 của Beatty, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 của Chuẩn đô đốc Gordon Moore và Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Thiếu tướng Hải quân William Goodenough được cho tập trung để hội quân cùng Lực lượng Harwich của Thiếu tướng Reginald Tyrwhitt lúc 08 giờ 00 ngày 24 tháng 1 ở vị trí khoảng 30 dặm (48 km) về phía Bắc Dogger Bank.[25]

Lúc 08 giờ 14 phút, Kolberg nhìn thấy chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Aurora cùng nhiều tàu khu trục thuộc Lực lượng Harwich.[26] Aurora khiêu khích Kolberg bằng một đèn pha, vào lúc mà Kolberg tấn công Aurora và ghi được hai phát trúng đích. Aurora bắn trả và cũng bắn trúng đối phương hai phát. Hipper lập tức cho chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương của mình đến nơi nổ súng, trong khi hầu như đồng thời vào lúc đó, Stralsund trông thấy một lượng khói lớn về phía Tây Bắc vị trí của nó. Đây được xác định là một số lượng tàu chiến lớn đang hướng về phía các con tàu của Hipper.[26] Hipper sau này nhớ lại:

Sự hiện diện của một lực lượng lớn như thế cho thấy các đơn vị khác của Hạm đội Anh đang ở gần đó, đặc biệt là việc tình báo vô tuyến bắt được các bức điện cho thấy sự hiện diện của Hải đội Tàu chiến-tuần dương 2 (của Anh)… Blücher ở phía cuối đội hình cũng báo cáo đã nổ súng vào một tàu tuần dương hạng nhẹ và nhiều tàu khu trục đang xông đến từ phía sau… Các tàu chiến-tuần dương dưới quyền của tôi, với gió Đông-Đông Bắc đang thổi, ở trong vị thế ngược gió nên gặp phải hoàn cảnh không thuận lợi ngay từ đầu… [26]

Hipper quay mũi về phía Nam để chạy thoát, nhưng bị giới hạn ở tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h), là tốc độ tối đa của chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ Blücher.[27][Ghi chú 6] Các tàu chiến-tuần dương Anh truy đuổi di chuyển với tốc độ 27 hải lý trên giờ (50 km/h), và nhanh chóng bắt kịp các con tàu Đức. Lúc 09 giờ 52 phút, Lion nổ súng nhắm vào Blücher ở khoảng cách 20.000 yd (18.000 m), rồi đến lượt Princess RoyalTiger cũng bắt đầu nổ súng không lâu sau đó.[26] Lúc 10 giờ 09 phút, các tàu chiến Anh ghi được phát bắn trúng đầu tiên trên Blücher; hai phút sau, các tàu chiến Đức bắt đầu bắn trả, chủ yếu tập trung nhắm vào Lion ở khoảng cách 18.000 yd (16.000 m). Đến 10 giờ 28 phút, Lion bị bắn trúng ngay mực nước, làm xé toang một lỗ hổng bên mạn tàu và làm ngập nước một khoang chứa than.[28] Cũng trong khoảng thời gian này, Blücher ghi được một phát đạn pháo 21 cm trúng vào tháp pháo phía trước của Lion; quả đạn không thể xuyên thủng vỏ giáp, nhưng cũng có hiệu quả chấn động và tạm thờiloại khẩu pháo bên trái khỏi vòng chiến.[29] Lúc 10 giờ 30 phút, New Zealand, chiếc thứ tư trong hàng chiến trận của Beatty, tiếp cận Blücher trong tầm bắn và bắt đầu nổ súng; đến 10 giờ 35 phút, khoảng cách được rút ngắn xuống còn 17.500 yd (16.000 m), khi toàn bộ hàng chiến trận Đức nằm trong tầm bắn hiệu quả của các tàu chiến Anh. Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình nổ súng vào đối thủ Đức tương ứng đối diện song song.[Ghi chú 7]

Đến 11 giờ, Blücher bị hư hại nặng nề sau khi hứng chịu nhiều quả đạn pháo hạng nặng từ các tàu chiến-tuần dương Anh. Dù sau, ba chiếc tàu chiến-tuần dương Đức dẫn đầu Seydlitz, Derfflinger và Moltke đã tập trung hỏa lực của chúng nhắm vào Lion, ghi được chiều phát bắn trúng, làm hỏng hai trong số ba máy phát điện của nó và làm ngập nước phòng động cơ bên mạn trái.[30] Lúc 11 giờ 48 phút, tàu chiến-tuần dương Indomitable đến gần, và theo chỉ thị của Beatty, tiếp tục nả pháo để tiêu diệt Blücher vốn đã bị tơi tả. Nó đã bốc chấy và nghiêng nặng sang mạn trái; một trong những người sống sót kể lại những hư hại mà con tàu chịu đựng:

Các quả đạn … pháo chui tọt vào đến tận các khoang đốt lò. Than trong các hầm chứa bốc cháy. Vì các hầm chứa than đã bị vơi đi một phần, đám cháy lan tràn khá nhanh. Một quả đạn pháo xâm nhập và phát nổ trong phòng động cơ làm cháy dầu và văng tung tóe đốm lửa khắp nơi… Áp lực dữ dội của một vụ nổ trong một khoang kín… dội ầm ầm qua mọi khoảng mở và phá tung mọi chỗ yếu kém… Những thân người bị nhấc tung bởi áp lực hơi nén kinh khủng và bị ném vào cái chết cạnh các khoang máy móc.[30]

Blücher lật nghiêng qua mạn và đang chìm

Tuy nhiên, việc này bị ngắt quãng do các báo cáo về sự xuất hiện của tàu ngầm U-boat Đức phía trước các con tàu Anh, buộc Beatty phải ra lệnh cơ động lẩn tránh và cho phép các tàu chiến Đức gia tăng khoảng cách với những kẻ truy đuổi.[31] Vào lúc này máy phát điện cuối cùng của Lion bị hỏng nốt, làm giảm tốc độ của nó xuống còn 15 kn (28 km/h). Bên trên chiếc Lion bị hỏng máy, Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương còn lại "tấn công đoạn hậu đối phương", nhưng sai sót trong việc diễn dịch tín hiệu đã khiến các con tàu đơn thuần chỉ nhắm vào Blücher.[32] Nó tiếp tục kháng cự một cách ngoan cường, đẩy lui cuộc tấn công của bốn tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Hải đội Tuần dương nhẹ 1 và bốn tàu khu trục. Tuy nhiên, soái hạm của Hải đội Tuần dương nhẹ 1, Aurora, đã bắn hai quả ngư lôi trúng vào Blücher. Đến lúc này mọi khẩu pháo của chiếc tàu chiến Đức đều đã im tiếng ngoại trừ tháp pháo đuôi. Một loạt bảy quả ngư lôi khác được phóng ở tầm bắn thẳng, khi trúng đích đã khiến con tàu lật úp lúc 13 giờ 13 phút. Trong suốt quá trình chiến đấu, Blücher đã bị bắn trúng khoảng 70-100 quả đạn pháo hạng nặng và nhiều quả ngư lôi.[33]

Khi con tàu chìm, các tàu khu trục Anh tiến về phía nó nhằm ý định cứu vớt những người sống sót. Tuy nhiên, khí cầu Zeppelin L5 nhầm lẫn Blücher đang chìm là một tàu chiến-tuần dương Anh và tìm cách ném bom các tàu khu trục Anh, buộc chúng phải rút lui.[32] Con số thương vong báo cáo khá thay đổi tùy theo nguồn tư liệu. Paul Schmalenbach cho rằng có 6 sĩ quan trong tổng số 29 và 275 thủy thủ trong tổng số 999 được vớt lên khỏi nước, đưa đến tổng số thương vong là 747 người thiệt mạng.[33] Các nguồn tư liệu chính thức của Đức do tác giả Erich Gröner khảo sát cho rằng có 792 người đã thiệt mạng khi Blücher chìm,[9] trong khi James Goldrick tham khảo các tài liệu của Anh đã báo cáo chỉ có 234 người sống sót trong tổng số thành viên thủy thủ đoàn ít nhất lên đến 1.200 người.[34] Trong số những người được cứu vớt có cả Đại tá Hải quân (Kapitan zur See) Erdmann, hạm trưởng của Blücher. Ông sau đó đã từ trần vì bệnh viêm phổi trong lúc bị người Anh bắt làm tù binh.[32] Có thêm 20 người khác qua đời trong giai đoạn bị giam giữ như tù binh.[33]

Sự tập trung mọi nỗ lực nhắm vào Blücher đã cho phép Moltke, Seydlitz và Derfflinger chạy thoát.[35] Đô đốc Hipper thoạt tiên dự định sử dụng ba tàu chiến-tuần dương của mình quay trở lại đánh vào sườn lực lượng Anh để giải vây cho Blücher, nhưng sau khi ông biết được những hư hại nghiêm trọng mà soái hạm của mình phải chịu đựng, ông quyết định bỏ lại chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ.[32] Hipper sau này kể lại về quyết định của mình:

Để giúp đỡ cho Blücher tôi quyết định thử cơ động đánh tạt sườn... Nhưng khi tôi được thông báo các tháp pháo C và D trên soái hạm của mình bị loại khỏi vòng chiến, bị ngập nước phía đuôi và chỉ còn lại 200 quả đạn pháo hạng nặng, tôi phải hủy bỏ mọi ý định hỗ trợ cho Blücher. Mọi sự di chuyển như vậy vào lúc này, khi không thể trông mong bất kỳ sự trợ giúp từ hạm đội chủ lực, có thể dẫn đến thiệt hại nặng nề hơn. Cứu giúp cho Blücher bằng cách di chuyển đánh tạt sườn sẽ đưa đội hình của tôi lọt vào giữa các tàu chiến-tuần dương Anh và các hải đội chiến trận rất có thể đang ở ngay phía sau.[32]

Vào lúc Beatty nắm trở lại sự chỉ huy các con tàu dưới quyền sau khi chuyển sang chiếc Princess Royal, các con tàu Đức đã dẫn trước quá xa khiến các con tàu Anh không thể nào bắt kịp; và đến 13 giờ 50 phút, Beatty từ bỏ việc truy đuổi.[32] Hoàng đế Wilhelm II, rất tức giận về việc Blücher bị mất và Seydlitz suýt bị đánh chìm, đã ra lệnh cho Hạm đội Biển khơi phải ở lại trong cảng. Chuẩn đô đốc Eckermann bị cách chức còn Đô đốc Ingenohl bị buộc phải từ chức; ông được Đô đốc Hugo von Pohl thay thế.[36]